Chia sẻ nội dung:
Cá dìa hay còn gọi là tảo ngư là tên gọi chỉ các loài cá thuộc chi Cá dìa (danh pháp khoa học: Siganus), chi duy nhất của họ Cá dìa (danh pháp khoa học: Siganidae) thuộc bộ Cá vược. Cá dìa sinh sống ở vùng nước mặn hay vùng cửa sông.[1]
Đặc điểm sinh học
Tên gọi tuỳ theo dân địa phương, thông thường được đặt tên theo hình dáng màu sắc bên ngoài. Một số loài cá dìa có xương gồm 13 đốt, da cá màu xanh đậm phần lông, màu bạc ở bụng lấm tấm hoa màu vàng trên thân[1] Cá dìa có kích thước to bằng bàn tay người lớn[2] và có trọng lượng bình quân 250g/con [3], cá dìa con thì có kích thước bằng hạt dưa[4].
Loại cá dìa bông trưởng thành có chiều dài khoảng 42 cm, trọng lượng cá trưởng thành khoảng 200-300gr, kích thước to bằng bàn tay, cá cá dìa vân sọc lớn hơn với chiều dài 52 cm. Loại cá dìa bông ở vùng Quảng Thái thuộc Thừa Thiên Huế có hoa nâu đen, hình dạng giống như lámít, nhận diện là các điểm lấm tấm trên thân có kích thước lớn hơn, thân cá tròn, dày, đầu và miệng cá ngắn, phần đuôi vây không có điểm vàng, loại cá dìa bông thì có thịt ngọt và thơm.
Cá dìa là loại di cư và sống theo bầy đàn[5] cá cái đẻ ở vùng nước lợ, khi cá còn nhỏ (gọi là cá bột, cá con) thì chúng sống chủ yếu ở vùngđầm phá cửa sông, đến khi trưởng thành, cá dìa bơi ra biển và tìm các ghềnh đá, bãi san hô, quanh bờ đá của hải đảo để sinh sống. Vào mùa hè giữa tháng 4 đến tháng 6 xuất hiện nhiều cá và cá đã vào giai đoạn trưởng thành, lúc này thịt cá săn chắc, nồng độ các chất kích thích tố sinh dục của cá vào thời cao điểm, riêng cá dìa bông ở Huế thì thường xuất hiện vào các tháng 5 đến tháng 9 hàng năm.[1].
Cá dìa hoạt động và kiếm mồi vào ban đêm. Thức ăn của cá dìa là thực vật thuỷ sinh, mùn bã hữu cơ, thức ăn chính, nhất là đối với loại cá dìa bông chính là tảo cho nên có được gọi là tảo ngư đồng thời chúng vẫn có thể ăn thức ăn tổng hợp trong điều kiện nuôi trồng [3].
Phân bố
Cá dìa có môi trường phân bố đa dạng, họ cá này hiện diện nhiều tại các vùng biển như Việt Nam (trong đó phân bố tại vùng Quảng Thái của tỉnh Thừa Thiên Huế, vùng hạ lưu sông Thu Bồn, tập trung nhiều nhất là tại rừng dừa Bảy Mẫu, Thuận Tình và các bãi bồi thuộc xã Cẩm Thanh tỉnh Quảng Nam[4]), Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia.[1]
Một số loại cá dìa thường thấy ở vùng ven biển, cửa sông và vùng đầm phá. Một số loài chỉ sống ở vùng ghềnh biển giáp núi, hải đảo, một số khác thì gần bờ nơi các ghềnh đá, đầm phá, rừng đước ngập mặn, cửa dông. Một số loài thường sinh sống ở cửa sông, biển ở độ sâu 6m với nhiệt độ từ 24-28 độ C, một số thích sống nhất là vùng nước lợ hay vùng biển có nồng độ muối thấp.[1]. Cá dìa là loài chịu dựng giải nhiệt và muối lớn, biên độ dao động muối từ 5-37‰[3].
Một số loài được ghi nhận ở Việt Nam gồm[1]:
Giá trị
Cá dìa là dùng để chế biến nhiều món ăn ngon như: cá dìa hấp bún[2], cá dìa hấp kiểu Huế[6]. Cá dìa bông là một đặc sản của Thừa Thiên Huế và Quảng Điền [3], số lượng cá không nhiều nhưng giá trị kinh tế khá cao. Số lượng cá này được đánh bắt phụ thuộc vào điều kiện thời tiết, khí hậu và đang có nguy cơ suy giảm.
Cá dìa Tam Giang-Quảng Thái được coi là loài đặc hữu, có giá trị cao nhất, thịt cá ngọt và thơm[1]. Ở Huế có mô hình nuôi cá dìa kết hợp nuôi tôm sú cho năng suất cao. Ở Quảng Nam, cá dìa giống bán giá cao nhất cho thương lái từ hai đầu Nam - Bắc với giá từ 400 - 500 ngàn đồng/kg, nhiều gia đình thu nhập 7 - 10 triệu đồng/ngày trong những năm 2012[4]. Ở Huế có thời kỳ người dân trúng mùa thu hoạch cá dìa kỷ lục do chính sách thả cá dìa giống về tự nhiên.[5]
Các loài
- Siganus argenteus – Streamlined Spinefoot (Quoy & Gaimard, 1825)
- Siganus canaliculatus – White-spotted Spinefoot (Park, 1797) (might belong in S. fuscescens)
- Siganus corallinus – Blue-spotted Spinefoot (Valenciennes, 1835) (probably several species)
- Siganus doliatus – Barred Spinefoot Guérin-Méneville, 1829
- Siganus fuscescens – Mottled Spinefoot (Houttuyn, 1782) Cá dìa tro
- Siganus guttatus – Orange-spotted Spinefoot (Bloch, 1787) Cá dìa bông, cá dìa chấm hay cá dìa công
- Siganus javus – Streaked Spinefoot (Linnaeus, 1766)
- Siganus labyrinthodes – Labyrinth Spinefoot (Bleeker, 1853)
- Siganus lineatus – Golden-lined Spinefoot (Valenciennes, 1835)
- Siganus luridus – Dusky Spinefoot (Rüppell, 1829)
- Siganus magnificus – Magnificent Rabbitfish (Burgess, 1977)
- Siganus niger – Black Foxface Woodland, 1990
- Siganus puelloides – Blackeye Rabbitfish Woodland & Randall, 1979
- Siganus puellus – Masked Spinefoot (Schlegel, 1852)
- Siganus punctatissimus – Peppered Spinefoot Fowler & Bean, 1929
- Siganus punctatus – Gold-spotted Spinefoot (Schneider & Forster, 1801)
- Siganus randalli – Variegated Spinefoot Woodland, 1990
- Siganus rivulatus – Marbled Spinefoot Forsskål, 1775
- Siganus spinus – Little Spinefoot (Linnaeus, 1758)
- Siganus stellatus – Brownspotted Spinefoot (Forsskål, 1775)
- Siganus sutor – Shoemaker Spinefoot (Valenciennes, 1835).
- Siganus trispilos – Three-blotched Rabbitfish Woodland & Allen, 1977
- Siganus unimaculatus – Blotched Foxface (Evermann & Seale, 1907) (probably belongs in S. vulpinus)
- Siganus uspi – Bicolored Foxface Gawel & Woodland, 1974
- Siganus vermiculatus – Vermiculated Spinefoot (Valenciennes, 1835)
- Siganus virgatus – Barhead Spinefoot (Valenciennes, 1835)
- Siganus vulpinus – Foxface Rabbitfish
- Siganus woodlandi Randall & Kulbicki, 2005
Nguồn: Wikipedia