\

Thủy sản 10 tháng và vấn đề quản lý dịch bệnh

Thủy sản 10 tháng và vấn đề quản lý dịch bệnh

Chia sẻ nội dung:

Trong 10 tháng đầu năm 2025, nuôi trồng và xuất khẩu thủy sản Việt Nam tăng khá, tuy nhiên vẫn đối diện nhiều dịch bệnh và chuyên gia ở Phòng Quản lý bệnh thuỷ sản của Cục Thuỷ sản và Kiểm ngư đề xuất giải pháp quản lý.

Nuôi trồng và xuất khẩu tăng với ít an toàn

Tổng sản lượng thủy sản 10 tháng đạt 8,16 triệu tấn, tăng 3,1% so cùng kỳ năm 2024. Trong đó, sản lượng nuôi trồng 4,89 triệu tấn, chiếm xấp xỉ 60% (tăng 5,1%); sản lượng khai thác 3,28 triệu tấn, chiếm 40% (tăng 0,4%). 

Trong sản lượng nuôi trồng gồm cá 3,2 triệu tấn, tăng 4,7% (cá tra 1,529 triệu tấn, tăng 4,5%); tôm 1,138 triệu tấn, tăng 6,3%, (tôm sú 238 nghìn tấn, tăng 3,6%; tôm thẻ 824 nghìn tấn, tăng 7,1%; tôm khác 76 nghìn tấn, tăng 6,6%); thủy sản khác 554 nghìn tấn, tăng 4,5%. 

Kim ngạch xuất khẩu 10 tháng hơn 9.312 triệu USD, tăng 12,9%. Trong đó, tôm gần 3.893 triệu USD, tăng 21,6%; cá tra gần 1.659 triệu USD, tăng 7,5%.

Nhưng số lượng cơ sở được cấp chứng nhận an toàn dịch bệnh còn quá ít, chỉ 31 cơ sở. Gồm 24 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống tôm nước lợ; 5 cơ sở nuôi tôm nước lợ thương phẩm; 1 cơ sở sản xuất tôm sú bố mẹ và 1 cơ sở sản xuất giống, nuôi thương phẩm cá cảnh.

Dịch bệnh gây thiệt hại ở 285 xã, phường

Trong 10 tháng có 285 xã, phường ở 18 tỉnh, thành phố công bố dịch bệnh với diện tích thiệt hại 6.746 ha, chiếm 1,49% diện tích nuôi trồng. Có 4 địa phương bị dịch bệnh gây thiệt hại lớn nhất là Cà Mau 50 xã với 2.458 ha; An Giang 58 xã với 1.404 ha, Cần Thơ 30 xã với 1.265 ha; Vĩnh Long 65 xã với 1.143 ha.

Dịch bệnh trên tôm sú ở 93 xã với diện tích 4.127 ha; chủ yếu là bệnh đốm trắng, đỏ thân, hoại tử gan tụy. Có 3 địa phương bị dịch bệnh diện tích lớn nhất là Cà Mau 38 xã với 1.940 ha, An Giang 18 xã với 1.336 ha, Cần Thơ 17 xã với 197 ha. 

Dịch bệnh trên tôm thẻ ở 137 xã với diện tích 2.133 ha; chủ yếu là bệnh đốm trắng, phân trắng, hoại tử gan tụy. Có 3 địa phương bị dịch bệnh diện tích lớn nhất là Cần Thơ 30 xã với 1.068 ha, Vĩnh Long 28 xã với 720 ha, Cà Mau 35 xã với 214 ha. 

Dịch bệnh trên cá tra ở 54 xã với diện tích 146 ha; chủ yếu là bệnh xuất huyết, gan thận mủ, ký sinh trùng. Có 3 địa phương bị dịch bệnh diện tích lớn nhất là Vĩnh Long 19 xã với 72 ha, An Giang 27 xã với 50 ha, Đồng Tháp 7 xã với 23 ha.

Khó khăn và tồn tại

Công tác quản lý chuỗi sản xuất nuôi trồng thủy sản theo phân công Bộ NN&MT: Cục Chăn nuôi và Thú y phụ trách kiểm dịch, Cục Thủy sản và Kiểm ngư phụ trách sản xuất nuôi trồng thủy sản, Cục Chất lượng Chế biến và Phát triển thị trường phụ trách chất lượng và an toàn thực phẩm trong công đoạn nuôi. 

Tồn tại hiện nay là bộ máy quản lý nhà nước về dịch bệnh thủy sản chưa thống nhất; một số văn bản quy phạm pháp luật chưa đồng bộ. Chưa có cơ sở dữ liệu dịch tễ quốc gia thống nhất; việc thu thập, cập nhật và chia sẻ dữ liệu giữa các viện, trường, địa phương còn rời rạc, thiếu tính kết nối, gây khó khăn cho công tác dự báo và ra quyết định. Thiếu hệ thống giám sát chủ động và cảnh báo sớm trên phạm vi quốc gia; công tác phát hiện bệnh vẫn mang tính bị động, thường chỉ triển khai sau khi dịch bệnh đã gây thiệt hại.

Quan trắc môi trường và phòng chống dịch bệnh chủ động còn thiếu tính liên kết. Vừa qua, công tác quan trắc môi trường do cơ quan quản lý thủy sản thực hiện, nhưng khi quản lý dịch bệnh lại do cơ quan thú y đảm nhiệm. Các tổ chức đăng ký và được chỉ định hoạt động xét nghiệm bệnh thủy sản còn ít; việc công bố một số bệnh của một số tổ chức/cá nhân chưa tuân thủ đầy đủ quy định.

Bên cạnh, nhận thức của người nuôi về an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh còn hạn chế, số lượng cơ sở đăng ký cấp chứng nhận cơ sở an toàn dịch bệnh còn thấp. Nguồn lực tài chính cho giám sát và phòng chống dịch chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác nghiên cứu, sản xuất và thương mại hóa vắc-xin phòng bệnh thủy sản còn hạn chế, đặc biệt đối với các bệnh nguy hiểm trên cá tra, cá biển.

Định hướng và giải pháp quản lý

Thực tế đang đặt ra yêu cầu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thú y thủy sản theo hướng thống nhất đầu mối từ Trung ương đến địa phương; đảm bảo chỉ đạo, điều hành xuyên suốt, tránh chồng chéo và không rõ trách nhiệm. Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về dịch bệnh thủy sản, kết nối dữ liệu giữa các viện nghiên cứu, cơ sở kiểm nghiệm, phòng thí nghiệm của các doanh nghiệp, địa phương với Bộ NN&MT.

Chủ động phòng ngừa, giám sát và cảnh báo sớm dịch bệnh trên phạm vi quốc gia; Chuyển từ “phòng, chống bị động” sang “quản lý chủ động”. Liên thông trong quan trắc cảnh báo môi trường với phòng chống dịch bệnh, phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý thủy sản và chính quyền địa phương.

Nâng cao năng lực hệ thống phòng thử nghiệm và tuân thủ quy định công bố bệnh. Mở rộng số lượng tổ chức được chỉ định xét nghiệm bệnh thủy sản, đảm bảo phân bố hợp lý giữa các vùng sinh thái. Siết chặt quản lý việc công bố dịch bệnh, bảo đảm thông tin minh bạch, chính xác và kịp thời.

Tăng số lượng và quy mô các cơ sở được chứng nhận an toàn dịch bệnh, gắn với phát triển vùng nuôi an toàn, truy xuất nguồn gốc phục vụ xuất khẩu. Địa phương bố trí nguồn lực tài chính đủ phòng, chống dịch. Hỗ trợ doanh nghiệp và viện nghiên cứu trong nghiên cứu, thử nghiệm, đăng ký, thương mại hóa các sản phẩm vắc-xin, chế phẩm sinh học phòng bệnh thủy sản.
 

Mrs Thoa - Miền trung
SĐT: 0978 182 284
Mrs Huyền - Miền Nam
SĐT: 0905 252 284
Danh bạ website